Hiển thị các bài đăng có nhãn ngan hang habubank. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ngan hang habubank. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Ngân Hàng Habubank Khắc Phục Xong Khó Khăn

Ngân Hàng Habubank Khắc Phục Xong Khó Khăn


Mặc dù đã gặp không ít sóng gió, nhưng sau khi sát nhập mọi khó khăn của habubank sẽ được giải quyết.
sáp nhập với ngân hàng khác được cho là tốt hơn. Trước đó, ngay khi công khai các tài liệu về phương án và đề án sáp nhập với SHB, HĐQT của ngân hàng Habubank khẳng định đây là một quyết định được cân nhắc một cách cẩn trọng trên cơ sở đảm bảo tối đa quyền lợi cho các cổ đông, cán bộ nhân viên trong điều kiện hiện nay của ngân hàng. Việc sáp nhập HBB vào SHB là việc chuyển toàn bộ trách nhiệm và nghĩa vụ của HBB với các khách hàng, đối tác, nhân viên cho SHB kể từ ngày nhận sáp nhập. Quá trình này, được sự kiểm soát và hỗ trợ chặt chẽ của NHNN các cấp để đảm bảo quá trình diễn ra thành công, không ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, khách hàng và các bên liên quan. 
ngân hàng habubank
                                                Ngân hàng Habubank
Song, tại sao lại chọn SHB và năng lực tài chính của nhà băng này đến đâu lại là câu hỏi được nhiều cổ đông của Habubank đặt ra. Có ý kiến cho rằng, SHB phải là một nhà băng có tài chính thực sự khỏe mới có thể gánh vác được ngân hàng Habubank cũng như đảm bảo sức khỏe, hiệu quả của ngân hàng sau sáp nhập. Việc sáp nhập theo đó cũng không thể tiến hành vội vàng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông. Bên cạnh dấu hỏi về năng lực tài chính của SHB, có ý kiến còn cho rằng, nếu được chọn, tại sao Habubank không chọn những định chế tài chính có năng lực hơn SHB... Thực tế thì ngay trong dự thảo đề án sáp nhập với SHB, HĐQT của ngân hàng Habubank cũng nhận thấy không ít các điểm yếu của đối tác sáp nhập. Phân tích về SHB, Habubank nhìn thấy một nhà băng có quy mô hoạt động chưa lớn, chưa có bề dày hoạt động và cơ cấu quản trị doanh nghiệp cũng chưa bắt kịp với tốc độ phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ cấu bảng cân đối kế toán của SHB vẫn tập trung nhiều vào hoạt động tín dụng và chi phí hoạt động cao so với tổng nguồn thu của ngân hàng.
ngân hàng habubank-1
                                               Ngân hàng Habubank và khách hàng
Dù có nhiều thắc mắc của cổ đông, ĐHCĐ của Habubank cũng đi đến phần biểu quyết và kết quả cuối cùng cho thấy, có đến 85,21% trên tổng số phiếu biểu quyết đồng ý thông qua phương án sáp nhập ngân hàng Habubank vào SHB kèm theo đề án sáp nhập, hợp đồng sáp nhập và điều lệ ngân hàng sau sáp nhập. Như vậy về mặt thủ tục, thương vụ sáp nhập hai ngân hàng cơ bản hoàn tất nửa chặng đường đầu tiên, về phía Habubank. Phía bên kia - SHB, chặng đường còn lại phụ thuộc vào kết quả tại ĐHCĐ sẽ được tổ chức vào ngày 5.5 tới đây. Có thông tin cho rằng, nửa còn lại dường như sẽ dễ dàng hơn.
Ngân hàng Habubank hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính quan liêu trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Ðặc điểm nổi bật của mô hình Habubank là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và quản lý rủi ro hiệu quả.
ngan hang habubank
                                                       Habubank
Rủi ro là một phần gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng. Kiểm tra và quản lý rủi ro sao cho cân bằng được mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận trước hết đòi hỏi một cơ cấu tổ chức phù hợp và chính sách nhất quán trong toàn hệ thống. Do đó, cơ cấu Habubank hoàn toàn được tổ chức theo chiến lược phát triển do Hội đồng Quản trị đề ra và liên quan chặt chẽ đến quản lý rủi ro. Đồng thời tính linh hoạt và giảm thiểu quan liêu cũng luôn được đề cao giúp Ngân hàng dễ thích ứng và thay đổi khi môi trường kinh doanh biến chuyển.
Hiện tại, Habubank có 1 Hội sở chính, 1 Sở giao dịch và 66 chi nhánh, phòng giao dịch với sản phẩm kinh doanh đa dạng gồm dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp (tài trợ thương mại quốc tế, ngoại hối, quản lý tiền mặt…), dịch vụ ngân hàng cá nhân (huy động, cho vay tiêu dùng, mua nhà…) và các hoạt động đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Nợ xấu cao, lãi suất thấp, dân sẽ ngại gửi tiền

Người dân thường ngầm ý chọn đâu lãi cao thì gửi, còn NH "có mệnh hệ gì" đã có Nhà nước cứu. Vì vậy NH đua nhau nâng lãi suất, còn người dân vô tư chọn NH để hưởng lãi suất cao. 


                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>

cho rằng, năm 2013 kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục khó khăn. Theo ông Phạm Hồng Hải, Ngân hàng Nhà nước luôn khuyến khích các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn, tuy nhiên, nợ xấu trong các ngân hàng ngày càng cao khiến cho nhiều ngân hàng ngần ngại cho vay vì họ phải tập trung giải quyết nợ xấu hơn là việc cho vay. Chỉ phi giải quyết được nợ xấu thì ngân hàng mới sẵn sàng cho doanh nghiệp vay được.
Trong khi đó, nếu lãi suất giảm xuống thì người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng do lãi suất thấp quá và điều này sẽ gây bất ổn cho nền kinh tế vì vậy phải duy trì lãi suất ở mức hợp lý.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh thì nhận định, Chính phủ đã trình Quốc hội phương án tái cơ cấu nền kinh tế. Biện pháp trước mắt của Chính phủ có tính chất ngắn hạn như giảm lãi suất, xử lý nợ xấu để ổn định nền kinh tế. Doanh nghiệp phải theo dõi và sẵn sàng để thay đổi, thích ứng, không nên nghĩ sẽ tiếp tục hoạt động như trước đây, không có vốn và dựa quá nhiều vào ngân hàng.
Theo ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, ở VN người dân thường có ngầm ý với nhau là cứ chọn ngân hàng nào lãi suất cao thì gửi, ngân hàng có mệnh hệ gì đã có Nhà nước cứu nên các ngân hàng vẫn đua nhau nâng lãi suất hút tiền còn người dân vô tư chọn ngân hàng nhóm dưới gửi để hưởng lãi suất cao.
Sắp tới, Luật Bảo hiểm tiền gửi có hiệu lực có quy định cụ thể chỉ bảo hiểm cho những khoản tín dụng nào và không bảo hiểm những khoản nào, người dân sẽ phải tự cân nhắc gửi tiền ở đâu an toàn theo quy định để đảm bảo tài sản của mình.
Theo tính toán, dù hiện nay vẫn tiếp tục còn dư địa để giảm lãi suất, trong trường hợp lãi suất huy động giảm về 8% (giảm 1% so với hiện tại), thì lãi suất thực dương vẫn còn 2%, tuy nhiên lãi suất thực dương thấp sẽ tạo cơ hội cho người dân quay lại găm giữ ngoại tệ và lãi suất thấp cũng "chặn" dòng tiền từ dân chảy vào ngân hàng chuyển sang các kênh đầu tư khác.
Bà Đào Thiên Hương, Công ty Cổ phần Quản lý quỹ Đầu tư Tài chính Dầu khí cho rằng, quá trình tái cơ cấu ngân hàng chậm do 2 lý do: thứ nhất là sức kéo ngược trở lại của các nhóm lợi ích nhóm vì có nhiều hoạt động không minh bạch của nhóm lợi ích đó. Hai là việc thay đổi việc này không đơn giản đã ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu hiện nay.
"Một trong những giải pháp Chính phủ yêu cầu là ngân hàng phải sáp nhập lại với nhau. Đây là động lực để làm nhóm ngân hàng tự động "soi" nhau. Thay đổi thói quen làm việc cũ không đơn giản tý nào. Như chúng ta đang ăn dưa cà mắm muối nhưng thay bằng ăn bơ, sữa... tất nhiên là khó", bà Hương nói.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Ngân hàng phải dùng lợi nhuận giải quyết nợ xấu!

Lợi nhuận cao, kinh doanh hiệu quả nhất trong nền kinh tế, ngành ngân hàng (NH) hoàn toàn có thể tự xử lý nợ xấu của chính họ xuống mức an toàn. 


Bài liên quan : <<  Ngân hàng habubank vượt qua khó khăn  >>
                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>
 

Lãi suất là tội đồ
Xử lý nợ xấu NH thông qua việc thành lập công ty mua bán nợ, mục đích theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là nhằm khơi thông vốn cho sản xuất. Bởi tỷ lệ nợ xấu cao, NH không dám cho doanh nghiệp (DN) vay nên tiền không thể chảy vào sản xuất, gây đình trệ, sụt giảm tăng trưởng. Hay nói cách khác, nợ xấu đang chặn cửa vay vốn của các DN. Nhưng thực tế cho thấy, nợ xấu không phải là "tội đồ" khiến nền kinh tế bị thiếu vốn.


Minh chứng rõ ràng nhất là các NH đang thặng dư thanh khoản, NH nào cũng kêu gào thừa vốn, cũng đang tìm cách đẩy mạnh cho vay. Đó là chưa kể, hầu hết các NH nằm trong nhóm G14 (chiếm 90% thị phần) đều công bố tỷ lệ nợ xấu nằm trong ngưỡng an toàn trong nửa đầu năm 2012. Như vậy có thể khẳng định, nợ xấu không phải là nguyên nhân chính trong việc DN không vay được vốn.


Vậy đâu là lý do khiến DN không tiếp cận được vốn NH? Câu trả lời chính là do lãi suất (LS) quá cao. Trong bối cảnh kinh tế VN và thế giới đều khó khăn hiện nay, một DN hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, cũng chỉ kỳ vọng mức sinh lời khoảng 8-10%. Còn hầu hết chỉ cố gắng duy trì hoạt động, giữ nhân công, cầm cự cho qua thời khó khăn.

Trong khi LS NH mấy năm nay luôn duy trì ở mức 18-25%. Hiện dù đã hạ, LS đầu ra trung bình vẫn 15-17%, cao gấp đôi, gấp 3 mức sinh lời ngay với các DN làm ăn hiệu quả, nên nếu vay được, DN cũng không dám vay. Hay nói cách khác, nguyên nhân chính khiến DN không tiếp cận được vốn chính là LS quá cao chứ không phải NH thiếu tiền.

Điều đó cho thấy, muốn vốn chảy vào sản xuất, điều cần phải làm là hạ lãi vay chứ không nên tạo ra sức ép dùng vốn nhà nước mua nợ xấu NH như cách chúng ta vẫn lập luận lâu nay.
Phải tự làm sạch mình
Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu hiện đã lên tới 8,6%, tương đương với 202.0000 tỉ đồng, một tỷ lệ cao và nhiều rủi ro, cần phải được điều chỉnh. Nhưng làm sạch nợ xấu, nói một cách sòng phẳng và thực chất như đã phân tích trên, đầu tiên là để đảm bảo an toàn cho chính các NH, cũng là thực hiện việc tái cơ cấu của Chính phủ.

Dựa vào tình hình kinh doanh thực tế, ngành NH hoàn toàn có thể tự "làm sạch mình". Cụ thể, năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, hầu hết NH đều đạt lợi nhuận lớn. Theo nguyên tắc, họ sẽ phải dùng lợi nhuận để "trừ" các khoản nợ xấu thay vì dùng lợi nhuận để chia cổ tức như lâu nay vẫn làm. Sử dụng lợi nhuận chưa đủ, họ tiếp tục phải trừ nợ xấu vào vốn. Nếu "sức khỏe" không chịu đựng được, lúc này mới tính đến chuyện có nên mua nợ xấu hay để NH phá sản.


Đây là nguyên tắc xử lý nợ xấu mà các nước đều áp dụng và cũng là nguyên tắc tối thượng trong kinh doanh. Nói một cách dễ hiểu, người bị bệnh, không thể kêu gọi sự giúp đỡ của người khác trong khi tiền của mình lại dành để... gửi tiết kiệm hoặc đầu tư kiếm lãi.


Tính toán của một chuyên gia tài chính cho thấy, nếu lấy lợi nhuận năm 2011 có thể xử lý được 6,8% tỷ lệ nợ xấu của ngành NH và tỷ lệ còn lại, đã nằm trong vòng an toàn. Việc thành lập công ty mua bán nợ xấu mà NHNN đang tính trình Chính phủ, có thể khẳng định, không cần thiết.

NH cần tự giải quyết nợ xấu
"Mỗi NH phải chấp nhận xử lý tổn thất của nợ nhóm 3. Như ví dụ ở trên, thiệt hại 60 tỉ đồng, lấy lợi nhuận bù vào. Nên có chủ trương cho phép phát mãi tài sản thế chấp thuộc nợ nhóm 5 để thu hồi vốn. Quá trình phát mãi đem ra đấu giá công khai thông qua trung tâm đấu giá và linh hoạt trong khung giá. Sau khi làm thành công nợ nhóm 5 thì qua xử lý nợ nhóm 4 cứ như vậy, mỗi NH sẽ tự giải quyết nợ xấu của mình" - theo một chuyên gia tài chính.

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Tỷ giá USD/VND đón đầu lãi suất?

Hôm nay (24/7), giá USD đồng loạt tăng mạnh trên biểu niêm yết của các ngân hàng thương mại. Liệu đây có là tín hiệu lãi suất tiếp tục giảm? 


                         <<  Ngân hàng Habubank tự tin xóa nợ  >>
 

Thông thường, mỗi ngày giao dịch, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) có từ 40 - 60 lần cập nhật tỷ giá USD/VND trên biểu niêm yết. Ngày cao điểm, tần suất có thể lên tới 65 lần.

Hôm nay (24/7), kết thúc ngày giao dịch chỉ có 25 lần Eximbank cập nhật. Song, lại là ngày tỷ giá USD/VND biến động mạnh ít thấy trong vài tháng qua. Đà tăng là nhanh và dứt khoát qua mức độ cập nhật đó.
Tại ngân hàng này, ngay đầu giờ giao dịch, giá USD bán ra đã nhảy một bước 20 VND lên 20.890 VND. Chỉ khoảng một giờ sau đó, mốc 20.900 VND chính thức được tái lập sau hơn một tuần sụt giảm vừa qua, tăng 30 VND so với cuối ngày hôm qua.

Đầu giờ chiều, giá USD bán ra tại đây tiếp tục tăng thêm một bước, lên 20.910 VND và giữ vững đến cuối ngày.

Tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), diễn biến tăng trên cũng tương tự. Chỉ khác, tại đây mức khởi điểm giá bán ra đầu ngày là 20.865 VND; theo đó, mức tăng tính đến cuối ngày là 45 VND.

Mức tăng trên dưới 40 VND là không quá đột biến, nhưng tạo sự dội ngược đáng chú ý sau xu hướng giảm vừa diễn ra. Tỷ giá niêm yết của các ngân hàng thương mại hiện vẫn thấp hơn nhiều so với mức trần quy định, nên còn sớm để có thể xác định một xu hướng tăng mạnh và nối dài hay không.

Nhưng, diễn biến trên có ngay khi thông tin chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 này tiếp tục giảm khá mạnh (giảm 0,29% so với tháng trước, mức giảm mạnh nhất kể từ năm 2009 trở lại đây).

Thông thường, lạm phát giảm về mức thấp sẽ làm bớt áp lực chuyển hóa sự mất giá của đồng nội tệ vào tỷ giá. Tuy nhiên, tác động đối với tỷ giá tại thời điểm này có thể là ở khả năng lãi suất VND sẽ tiếp tục giảm, gắn với thực tế diễn biến của lạm phát.

Sau loạt cắt giảm từ tháng 4 đến nay, trần lãi suất và các lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước đã xuống thấp, chênh lệch lãi suất USD - VND đã bị rút ngắn đáng kể. Nay, trước diễn biến trên của lạm phát, nếu lãi suất VND tiếp tục giảm, khoảng cách đó tiếp tục bị thu hẹp có thể tác động rõ rệt hơn đến tỷ giá. Thậm chí hôm nay có tổ chức quốc tế còn dự báo lãi suất VND có thể còn giảm thêm 2% từ nay đến cuối năm.

Theo đó, có thể biến động của tỷ giá USD/VND trong ngày hôm nay là một phản ứng đón đầu? Dĩ nhiên có thể thị trường xuất hiện một lực cầu lớn cá biệt nào đó.

Còn phía Ngân hàng Nhà nước, tại buổi đối thoại với doanh nghiệp cuối tuần qua, định hướng giữ ổn định trong khoảng 2 - 3% cho năm nay tiếp tục được nhấn mạnh. Và nhìn lại, các đợt tăng của tỷ giá từ đầu năm đến nay cũng chỉ diễn ra một cách ngắn ngủi.


 

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Thời của VNĐ

TS. Võ Trí Thành cho rằng, thanh khoản tốt nhất của các tài sản hiện nay được xếp theo thứ tự: VNĐ, USD, vàng, cổ phiếu, trái phiếu và BĐS.


                         <<  Ngân hàng Habubank tự tin xóa nợ  >>
 

VNĐ đang chiếm ưu thế so với các kênh đầu tư khác do mặt bằng lãi suất VNĐ vẫn đang ở mức khá cao khi lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn dưới 12 tháng ở mức 9%/năm; kỳ hạn trên 12 tháng lên tới 11 – 12%/năm.
Nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của thị trường vốn, bất động sản (BĐS) đã mở ra nhiều kênh đầu tư hấp dẫn bên cạnh vàng, ngoại tệ. Song đầu tư vào đâu để mang lại hiệu quả cao lại là vấn đề không hề dễ dàng với ngay cả những nhà đầu tư chuyên nghiệp chứ chưa nói gì đến người dân. Nhưng theo gợi ý của nhiều chuyên gia, trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, tính thanh khoản cần được coi trọng hơn lợi nhuận.
TS. Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho rằng, thanh khoản tốt nhất của các tài sản hiện nay được xếp theo thứ tự: VNĐ, USD, vàng, cổ phiếu, trái phiếu và BĐS.
Theo lý thuyết kinh tế, tính thanh khoản (liquidity) của một tài sản là khả năng quy đổi ra tiền mặt của tài sản đó. Tính thanh khoản cao là khả năng quy đổi ra tiền mặt nhanh nhất, tính thanh khoản thấp thì ngược lại. Vì thế VNĐ rõ ràng là có tính thanh khoản cao nhất (vì nó không cần phải quy đổi - trừ phi bạn muốn đổi ra ngoại tệ hoặc đồng tiền khác).
Tuy nhiên, một chuyên gia lại cho rằng, thứ tự thanh khoản tiếp theo là USD thì cần xem lại; thanh khoản của vàng có thể còn cao hơn USD. Bởi hiện việc chuyển đổi từ vàng sang VNĐ và ngược lại còn dễ dàng và thuận tiện hơn. Trong khi NHNN đang chủ trương kiểm soát chặt thị trường ngoại tệ và Nhà nước cũng không khuyến khích người dân nắm giữ ngoại tệ như hiện nay. Bằng chứng là ngay cả nhà đầu tư nước ngoài muốn chuyển đổi USD sang VNĐ phải đăng ký giao dịch với NHNN sau đó mới được chuyển. Hơn nữa, việc chuyển đổi từ VNĐ sang USD còn khó khăn hơn vì bình thường muốn mua USD, nhà đầu tư phải có lý do.
Thậm chí có chuyên gia còn cho rằng, nhiều khi khả năng chuyển đổi cổ phiếu sang VNĐ có thể nhanh hơn chuyển đổi từ USD sang VNĐ. Thế nhưng, nhiều ý kiến lại tỏ ra không đồng tình khi cho rằng, hiện cổ phiếu chỉ được giao dịch từ 8h30 sáng đến 2h15 chiều chứ không kéo dài cả ngày như vàng hay ngoại tệ. Chưa hết, phải 3 ngày sau khi mua (bán) thì cổ phiếu (tiền) mới được chuyển về tài khoản của người mua (bán). Như vậy tính về mức độ linh hoạt của nó có hạn chế hơn so với vàng hay ngoại tệ. Song để giao dịch một số lượng lớn tới 1000 tỷ đồng trên thị trường mà mua vào và bán ra với cổ phiếu có tính thanh khoản cao lại dễ hơn, tốc độ lưu chuyển tiền lớn hơn so với vàng.
Mặc dù vậy, các chuyên gia tỏ ra khá đồng tình khi xếp BĐS vào vị trí cuối cùng trong bảng xếp hạng thanh khoản. Rõ ràng việc xếp BĐS đứng cuối bảng không phải là không có lý khi hiện thị trường BĐS vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, giao dịch đóng băng khi tìm cả tháng không có người mua. Dự báo một tương lai mới cho thị trường vẫn chờ những hiệu ứng chính sách từ đầu tư công, các chương trình cho vay mua nhà của các ngân hàng.
Bên cạnh tính thanh khoản, kỳ vọng lợi nhuận là yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn của một tài sản đầu tư. Về mặt này VNĐ cũng đang chiếm ưu thế rõ rệt so với các loại tài sản khác.
Quả vậy, sau nhiều giải pháp quyết liệt của NHNN, thời gian qua tỷ giá USD/VNĐ được duy trì khá ổn định và dự báo, từ nay đến cuối năm, áp lực lên tỷ giá là không lớn và nếu có biến động cũng không quá 3%. Điều đó có nghĩa, việc nắm giữ USD là không có nhiều lợi thế.
Trong khi, việc đầu tư vào vàng lại quá rủi ro do giá vàng diễn biến khá bất thường và mức độ biến động giá thường khá lớn trong một thời gian ngắn. Điều đó có nghĩa, vàng là kênh đầu tư không dành cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ, ít vốn và thiếu kinh nghiệm, hiểu biết.
Chứng khoán cũng không được coi là kênh đầu tư hấp dẫn khi diễn biến thị trường thời gian qua khá lình xình, triển vọng cũng chưa rõ ràng. “Xu hướng tăng điểm bền vững chỉ trở lại khi thanh khoản tăng theo khối lượng. Chưa kể kết quả kinh doanh của các DN niêm yết hiện nay còn rất yếu, quý III nhiều khả năng còn xấu hơn quý II/2012” một chuyên gia phân tích.
BĐS lại càng ảm đạm khi giá liên tục tụt giảm thê thảm, song giao dịch vẫn thưa thớt. Tính đến nay, giá nhiều phân khúc BĐS đã giảm đến 30 - 40%, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, giá BĐS vẫn chưa về đến đây và vẫn vượt quá xa so với khả năng thanh toán của nhiều người dân. Vì vậy, nhiều chuyên gia cũng dự báo, thị trường BĐS khó có thể phục hồi trong năm nay.
Trong bối cảnh đó, rõ ràng, việc VNĐ là có lợi thế hơn cả, do mặt bằng lãi suất VNĐ vẫn đang ở mức khá cao khi lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn dưới 12 tháng ở mức 9%/năm; còn kỳ hạn trên 12 tháng lên tới 11 – 12%/năm. Hơn thế, lạm phát đang được kiềm chế. CPI tháng 6 thậm chí còn giảm sau 38 tháng tăng liên tục. Dự báo CPI tháng 7 nếu tăng cũng chỉ tăng ở mức rất thấp do giá xăng dầu vừa tiếp tục giảm và xu hướng giảm vẫn còn tiếp diễn trong thời gian tới do kinh tế thế giới ảm đạm; giá lương thực thực phẩm cũng đang trong xu hướng giảm một phần do yếu tố mùa vụ. Lạm phát thấp càng cùng cổ xu thế ổn định của tỷ giá và gia tăng vị thế cho VNĐ.
“Nắm giữ VNĐ là lựa chọn khôn ngoan nhất hiện nay”, nhiều chuyên gia kết luận.